Tô Vĩnh Diện (1924 - 1954) là một Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân của Việt Nam. Anh hùng Tô Vĩnh Diện sinh ra ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống (nay là huyện Triệu Sơn), tỉnh Thanh Hóa. Anh sinh trưởng trong một gia đình nghèo, lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ, phải chịu bao cảnh áp bức bất công.
Năm 1946, anh tham gia dân quân ở địa phương. Năm 1949, anh xung phong vào bộ đội. Tháng 5 năm 1953, Quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị đánh lớn. Tô Vĩnh Diện được điều về làm Tiểu đội trưởng pháo cao xạ, thuộc Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367. Trong quá trình hành quân cơ động trên chặng đường hơn 1000 km tới vị trí tập kết để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, anh luôn luôn gương mẫu, đảm nhiệm những công việc khó khăn nặng nề nhất. Khi bộ đội ta kéo pháo qua những chặng đường khó khăn nguy hiểm, anh xung phong giữ càng lái để bảo đảm an toàn cho khẩu pháo.
Dũng cảm hy sinh lấy thân mình chèn bánh pháo
Anh nổi tiếng với giai thoại hy sinh thân mình để cứu khẩu pháo không bị lăn xuống vực trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Tấm gương hy sinh vô cùng anh dũng của đồng chí Tô Vĩnh Diện đã cổ vũ mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Từ ngày 16 đến ngày 24/1/1954, được sự trợ giúp của bộ binh và công binh, các đơn vị pháo trong đó có đơn vị của đồng chí Tô Vĩnh Diện bắt đầu kéo pháo bằng sức người tới vị trí tập kết để tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trên chặng đường hành quân dài khoảng 1.000km và khi kéo pháo qua những đoạn đường khó khăn gian khổ, Tô Vĩnh Diện luôn xung phong lái pháo, gương mẫu, động viên đồng đội đưa pháo đến nơi tập kết an toàn.
Để đảm bảo cho Chiến dịch Điện Biên Phủ chắc thắng, ngày 26/1/1954, Bộ Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ quyết định đổi phương án tác chiến từ "Đánh nhanh, thắng nhanh" sang "Đánh chắc, tiến chắc". Các đơn vị pháo binh nhận được mệnh lệnh từ Bộ Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ phối hợp với bộ binh kéo pháo ra, trong đó có đơn vị của Tô Vĩnh Diện. Kéo pháo vào đã gian khổ, khó khăn, kéo pháo ra lại càng gay go, trắc trở. Những lúc gặp chặng đường nguy hiểm, Tô Vĩnh Diện luôn xung phong ở những vị trí khó khăn để bảo đảm an toàn cho pháo.
Đêm ngày 1/2/1954, trời mưa, đường trơn, trên đường kéo pháo ra, tới dốc Chuối - một dốc nghiêng 70 độ, đường hẹp và cong rất nguy hiểm - Tô Vĩnh Diện cùng đồng chí Ty xung phong lái pháo. Nửa chừng, dây tời bị đứt, pháo lao nhanh xuống dốc, Tô Vĩnh Diện vẫn bình tĩnh giữ càng, lái cho pháo xuống thẳng đường. Nhưng không may, một trong bốn dây kéo pháo lại bị đứt tiếp, khẩu pháo càng lao nhanh, đồng chí Ty bị hất xuống suối. Trong hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Tô Vĩnh Diện hô anh em “Thà hy sinh, quyết bảo vệ pháo” và buông tay lái chạy lên phía trước, lấy thân mình lao vào chèn bánh pháo. Khẩu pháo bị vướng, nghiêng dựa vào sườn núi và dừng hẳn. Đơn vị kịp ghìm giữ được khẩu pháo dừng lại, đưa Tô Vĩnh Diện ra ngoài.
Khi được đồng đội ứng cứu, anh chỉ kịp hỏi: “Pháo có việc gì không?” rồi kiệt sức, hy sinh. Lúc đó là 2 giờ 30 phút ngày 1/2/1954. Tấm gương hy sinh cứu pháo của Tô Vĩnh Diện được toàn mặt trận cảm phục, noi gương đưa pháo ra an toàn. Đồng chí được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất.
Ngày 7/5/1956, đồng chí Tô Vĩnh Diện được Đảng và Nhà nước truy tặng Huân chương Quân công hạng Nhì và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân theo Quyết định số 118/LCT.
Những kỉ vật của Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện tại Bảo tàng Chiến thắng Điện Biên Phủ:
Trong hệ thống trưng bày của Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ có hàng ngàn tài liệu, hiện vật có giá trị trong đó có nhóm hiện vật đặc biệt, là kỷ vật của Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Tô Vĩnh Diện. Hiện vật tuy đơn sơ, mộc mạc, nhỏ bé nhưng chứa đựng giá trị lịch sử và tình cảm thiêng liêng.
- Con dao: được làm bằng thép, có kích thước dài 40cm, rộng bản 5.2cm. Đây là di vật đã gắn liền với đồng chí Tô Vĩnh Diện. Theo lời kể của đồng chí Trần Quốc Trân nguyên Trung đội trưởng của đồng chí Tô Vĩnh Diện thì vào chiều ngày 1/2/1954, đồng chí Tô Vĩnh Diện đã sử dụng con dao này vào rừng để chặt cây ngụy trang cho pháo tránh sự phát hiện của máy bay Pháp.
- Bi đông: có kích thước cao 18cm, đường kính miệng 3,3cm, chu vi 37cm được làm bằng nhôm màu xanh quân sự. Trên bi đông có chữ Phạm 83. Đây là chiếc bi đông được cấp phát trong thời gian đồng chí Tô Vĩnh Diện tham gia khóa học về pháo tại Nam Ninh - Trung Quốc.
- Bát sắt: cũng giống với chiếc bi đông, chiếc bát sắt này cũng được cấp phát trong thời gian đồng chí Tô Vĩnh Diện tham gia khóa học về pháo tại Nam Ninh - Trung Quốc.
- Áo bông: đây là chiếc áo đồng chí Tô Vĩnh Diện đã mặc trong suốt thời gian kéo pháo. Mặc dù thời tiết vào mùa đông lạnh giá nhưng chiếc áo đã thấm đẫm những giọt mồ hôi trong khi kéo pháo. Áo đã bạc màu nhưng giá trị lịch sử của nó vẫn còn nguyên vẹn như minh chứng cho lòng quyết tâm, quả cảm của đồng chí nói riêng và của các chiến sĩ Điện Biên nói chung.
Hiện nay, hài cốt của liệt sĩ Tô Vĩnh Diện được Nhà nước quy tập và an táng tại nghĩa trang đồi A1, thành phố Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Di tích Đường kéo pháo bằng tay năm xưa đã được xây dựng, ở đó có đặt một tượng đài kéo pháo hoành tráng mô phỏng cảnh trung đội pháo của đồng chí Tô Vĩnh Diện đang kéo khẩu pháo xuyên rừng, vượt dốc vào trận địa. Nơi đồng chí Tô Vĩnh Diện hy sinh cũng được đặt bia nhằm tôn vinh sự hành động “Vì nước quên mình” của đồng chí.
- Khẩu pháo 37mm, mang số hiệu 510681 do Liên Xô sản xuất năm 1939, (hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Phòng không - Không quân) gắn liền với tấm gương hy sinh của liệt sĩ Tô Vĩnh Diện được Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định công nhận là Bảo Vật quốc gia đợt 1 (ngày 1/10/2012) cùng 29 hiện vật tiêu biểu khác trong hệ thống bảo tàng, di tích quốc gia Việt Nam.
- Tên của Liệt sĩ Tô Vĩnh Diện đã được đặt cho nhiều tên đường và tên trường học ở nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước.